fbpx

Tất tần tật về kem chống nắng có thể bạn chưa biết?

Chống nắng đường bôi là tên đúng nhất dùng cho các sản phẩm chống nắng bôi trên thị trường. Tuy nhiên, tên nó dài và dạng trình bày của nó thường là dạng kem (cream) nên người Việt mình gọi là kem chống nắng, trong bài viết này bác sĩ Tâm sẽ dùng thuật ngữ kem chống nắng.

Thành phần trong kem chống nắng

Hoạt chất chống nắng

Kem chống nắng vô cơ (hay còn gọi là kem chống nắng vật lý)

Gồm TiO2 và ZnO được FDA của Mỹ công nhận dùng trong chống nắng vật lý. Ngoài 2 loại này còn có thể sắt oxide (iron oxide), kaolin, ichthammol, petrolatum, talc, calaminein.

Kem chống nắng loại này tán xạ ánh sáng giúp da chúng ta không bị ảnh hưởng. Về mặt cấu trúc TiO2 và ZnO tồn tại dưới dạng hạt: hạt micro (>1000nm), dạng dưới micro (100-1000nm) và dạng nano (<100nm). Dạng trình bày nano hiện tại hay được dùng vì gây màu trắng khi dùng hơn.

Khi dùng chống nắng vật lý các hãng dược thường thêm vào chất bọc bề mặt như silicone như dimethicone, nhôm (alumina), silica, triethoxycaprylylsilane. Khi dùng những chất bọc bề mặt làm tăng tính bền vững của chống nắng vật lý, giảm sự kết tụ của các hạt chống chống nắng.

Ưu điểm: chống được cả UVA và UVB, khả năng chống nắng ổn định theo thời gian; ít dị ứng, kích ứng với da vì thế hay được dùng trong chống nắng cho trẻ em, người có làn da nhạy cảm. ZnO chống cả UVA (chống cả UVA1 và UVA2) và UVB tốt hơn TiO2 (chống UVB và UVA2).

Nhược điểm: Do cơ chế tán xạ, phản xạ nên khi bôi lên da chống nắng vật lý không chỉ phản xạ tia cực tím mà cả ánh sáng nhìn thấy vì vậy mắt thường chúng ta thấy có màu trắng. TiO2 có chỉ số tán xạ, phản xạ cao hơn nên trắng hơn ZnO. Chúng ta khắc phục bằng cách tạo ra các chế phẩm có kích thước nhỏ ở mức nanomet (khi dùng kích thước nhỏ khả năng tán xạ và phản xạ giảm đi, khả năng hấp thụ tăng lên), tuy nhiên cũng chỉ giảm được phần nào đó, vì thế kem chống nắng vật lý vẫn có màu trắng nâng tông da. Đây là nhược điểm nhưng cũng có thể là ưu điểm của chống nắng vật lý.

Khi bôi trên da thường tạo ra bề mặt khô, thô ráp vì vậy chống nắng dạng này ít thích hợp với người da khô.

Kem chống nắng hữu cơ (hay còn là kem chống nắng hóa học)

Chống nắng dựa trên có chế hấp thụ ánh sáng. Được chia làm 2 nhóm lớn là nhóm hấp thụ UVA và nhóm hấp thụ UVB.

Nhóm hấp thụ UVB

  • Aminobenzoates: Bao gồm PABA (p-aminobenzoic acid) và Padimate-O (octyl dimethyl PABA). Các chất này không hòa tan trong nước và có khả năng tạo liên kết hydro chặt chẽ với tế bào sừng do đó được sử dụng trong các loại kem chống nắng chống nước. Tuy nhiên nó gây ố vàng áo quần và tỷ lệ dị ứng khá cao lên đến 4%. Hiện nay ít được dùng do quan ngại về nguy cơ gây ung thư.
  • Cinnamates gồm octinoxate (octyl methoxycinnamate [OMC]) và cinoxate (2-ethoxyethyl-pmethoxycinnamate). OMC là chất hấp thụ UVB mạnh nhất và được sử dụng rộng rãi ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. Khả năng hấp thụ UV có thể tăng hơn nữa khi được gói gọn trong microsphere polymethylmethacrylate. Thuốc chống được nước và khả năng dị ứng thấp. Tuy nhiên chất trên không tương thích với avobenzone (hoạt chất chống nắng dùng rộng rãi).
  • Salicylates: gồm octisalate (ethylhexyl salicylate), homosalate, và trolamine salicylate được FDA chấp nhận sử dụng chống nắng. Những chất này được xem là nhóm có khả năng chống UVB yếu tuy nhiên nếu kết hợp với các chất lọc UV khác để đáp ứng được yêu cầu SPF. Các chất này không xâm nhập vào da, khả năng dị ứng thấp. Octisalate và homosalate tồn tại dưới dạng dầu có cực nên khu dùng tạo cảm giác bóng nhờn còn trolamine salicylate thì tan trong nước. Ngoài ra, chúng còn có tác dụng để ổn định và ngăn chặn sự phân hủy của thành phần chống nắng khác như oxybenzone và avobenzone
  • Octocrylene với tên gọi 2-ethylhexyl-2cyano-3,3-diphenylarylate: Tan trong nước, tính an toàn cao. Tuy khả năng hấp thu UV thấp nhưng được xem như là chất ổn định avobenzone.

Nhóm hấp thụ UVA

  • Benzophenones: là một nhóm các cetone thơm với khả năng hấp thụ UVA mạnh. Nhóm này tồn tại dưới dạng tinh thể tan trong dầu. Vì vậy để hoà tan được các chất này cần thêm nhiều chất dưỡng ẩm, vì thế chống nắng dùng trong hoạt chất trên khi dùng tạo cảm giác bóng nhờn trên da.
    • Oxybenzone (benzophenone-3) là thành viên của nhóm benzophenone được phê duyệt bởi FDA. Phổ hấp thụ: 270 đến 350nm trong đó có hai đỉnh hấp thụ ở 288 và 325nm. Do đó chủ yếu hấp thụ UVA2. Khả năng gây kích ứng và dị ứng cao và có khả năng hấp thụ được vào tuần hoàn: người ta đã tìm thấy chất này trong máu và nước tiểu sau khi bôi trên da. Ngoài ra 1 số ý kiến cho rằng oxybenzone có tác dụng phụ lên nội tiết và có khả năng gây ung thư mặc dù những giả thuyết này chưa được chứng minh. Một điều nữa oxybenzone không ổn định khi tiếp xúc với tia UV. +
    • Avobenzone (butyl methoxydibenzoylmethane): Phổ hấp thụ: 310 đến 400nm trong cấu trúc phân tử có 2 đồng phân mỗi đồng phân có 1 đỉnh hấp thụ riêng nhưng nói chung đỉnh hấp thu xung quanh 360nm. Đây hoạt chất chống nắng hoá học duy nhất hiện tại chống lại UVA1 nên trong các sản phẩm chống nắng thường có. Các nhược điểm: Không ổn định khi tiếp xúc với ánh sáng: giảm 50-90% phân tử sau tiếp xúc ánh sáng 1 giờ. Không kết hợp được với octinoxate: sau khi hấp thụ ánh sáng avobenzone chuyển từ trạng thái ổn định sang trạng thái không ổn định, tại trạng thái này avobenzone sẽ kết họp với octinoxate thành phân tử mới và làm mất tác dụng của cả 2. Để duy trì trạng thái ổn định của avobenzone người ta thêm vào một số chất ổn định trong đó bao gồm các chất có khả năng hấp thụ UV như: octocrylene hoặc các chất không có khả năng hấp thụ UV như diethylhexyl 2,6-napththalate. Một trong những nhược điểm lớn của chất này là làm vàng quần áo của chúng ta.
  • Ecamsule có phổ hấp thu rộng: từ 290 đến 390 nm, hấp thụ cực đại ở 345nm nên phổ tác dụng chỉ tới UVA2. Không tan trong nước, ổn định dưới ánh sáng và mức độ hấp thu toàn thân rất thấp. Hiện nay FDA chấp thuận là hợp chất lọc UV tuy nhiên chỉ ở một số dạng công thức nhất định. Công thức hay được sử dụng hiện nay là: Ecamsule kết hợp với avobenzone, octocrylene và titan dioxide có trong kem chống nắng Vichy, Anthelios.
  • Một số chất chống nắng khác nhưng chưa được FDA Mỹ chấp nhận
    • Bisoctrizole (methylene-bis-benzotriazolyl tetramethylbutylphenol): Hợp chất này được bán trên thị trường với tên thương mại Tinosorb M. Được chấp thuận tại Châu Âu, Úc và Nhật Bản. Nồng độ tối đa cho phép ở châu Âu là 10%. Phổ hấp thụ rộng cả UVA và UVB với hai đỉnh hấp thụ ở mức 303 và 360nm. Bản chất là một chất ổn định với ánh sáng và cũng có khả năng ổn định các chất hấp thụ UVA khác như avobenzone. Bản chất là chất chống nắng hóa học nhưng cũng có khả năng tán xạ như 1 chất chống nắng vật lý nhờ công nghệ hạt micro hoặc nano (vì vậy khi dùng chống nắng loại này cũng nâng tông nhẹ). Nhờ kích thước phân tử lớn (659 Da) nên rất ít hấp thu đường toàn thân. Các sản phẩm chống nắng đến từ Châu Âu có nhiều kem chống nắng chứa thành phần này. Một trong những điểm lưu ý là: khi dùng hợp chất này dưới dạng nano cần chất bề mặt nhẹ, không ion là decyl glucoside. Đây là 1 chất bề mặt có thể gây viêm da tiếp xúc dị ứng (tuy tỉ lệ thấp).
    • Bemotrizinol (bis-ethylhexyloxyphenol methoxyphenyl triazine): Hợp chất này được bán trên thị trường với tên thương mại Tinosorb S. Được chấp thuận tại Châu Âu, Úc và Nhật Bản. Nồng độ tối đa cho phép ở châu Âu là 10%. Phổ hấp thụ rộng từ 280-380 nm với hai đỉnh hấp thụ ở mức 310 và 343nm. Trọng lượng phân tử lớn 629 Da nên rất ít hấp thu qua da và là chất ổn định với ánh sáng nhờ có cấu trúc đặc biệt. Chất này có trong kem chống nắng của hãng avene
    • Octyl triazone (ethylhexyl triazone): Đây là chất hấp thụ UVB. Đã được bán trên thị trường Châu Âu, Úc và Nhật Bản Bảng khả năng chống nắng của một số hoạt chất.

Mấy điều chốt rút ra từ bảng và các hoạt chất ở trên:

  • Thành phần chống nắng vật lý chống được cả UVA và UVB, tuy nhiên nó có màu trắng nên ít được ưa chuộng.
  • Chống nắng hoá học không gây trắng da nhưng lại chủ yếu chống lại UVB (trừ avobenzen và ecamsule). Vì vậy trên thị trường hiện tại thường kết hợp giữa chống nắng vật lý và chống nắng hoá học.
  • Một số hãng chỉ dùng chống nắng hoá học nhưng phải kết hợp avobenzen, ecamsule với chống nắng chống tia UVB khác để chống nắng được cả UVA và UVB. Vì vậy ta có cách chia kem chống nắng thành 2 dạng trên lâm sàng: kem chống nắng nâng tông (chứa chống nắng vật lý) và kem chống nắng không nâng tông (chứa chủ yếu thành phần chống nắng hoá học).
  • Các thành phần khác Chất chống oxy hóa Các chất chống oxy hóa có thể được bổ sung vào trong thành phần của kem chống nắng với mục đích hạn chế tác dụng có hại của tia UV. Các chất chống oxy hóa này cần đáp ứng đủ các yêu cầu: khả năng chống lại gốc tự do tốt, không được chuyển đổi thành chất có phản ứng chuỗi, công thức phải ổn định, nồng độ cần phải đủ cao tuy nhiên khi ở nồng độ cao lại hay gây kích ứng da, không có các màu quá đậm Vitamin C (L-ascorbic acii) là chất chống oxy hóa có nồng độ cao nhất tại da: cao gấp 15 lần glutathion, 200 lần vitamin E và 1000 lần ubiquinone. B
  • Bên cạnh tác dụng chống oxy hóa, vitamin C còn có khả năng kích thích tổng hợp collagen làm trắng da và tăng cường khả năng chống nắng. Vitamin E, selenium, silymarin, tinh chất trà xanh… cũng hay được thêm vào chống nắng.
  • Thành phần khác Dưỡng ẩm bít như silicone, petrolatum hay glycerol, propylene glycol là những chất hút ẩm cũng thường được đưa vào dưỡng ẩm.
  • Thuốc xua côn trùng DEET đôi khi cũng được đưa và chống nắng của trẻ em. Với DEET có thể bảo vệ con của các bạn khỏi côn trùng đốt >8 giờ.

Xem thêm: Tác dụng phụ và độc tính của kem chống nắng

Các chỉ số đánh giá mức độ chống nắng

Chỉ số đánh giá khả năng chống lại UVB: chỉ số SPF (Sunburn Protection Factor)

In-vivo: chỉ số SPF được xác định bằng tỷ lệ liều đỏ da tối thiểu trên da được bảo vệ bởi kem chống nắng/liều đỏ da tối thiểu trên da không được bảo vệ bởi kem chống nắng.

Invitro: được xác định bằng chỉ số tia UVB có thể truyền màng phim có chứa chất chống nắng, phương pháp đếm chỉ số tia UV được thực hiện dựa trên máy đo quang phổ.

Như vậy có thể hiểu chỉ số SPF theo 2 cách:

  • Theo thời gian: theo quy ước quốc tế 1 SPF sẽ có khả năng bảo vệ làn da và hạn chế tác hại của tia UVB trong khoảng 10 phút, với cách hiểu này, bạn chỉ cần lấy chỉ số SPF trên kem chống nắng nhân với 10, để từ đó tính ra số phút mà kem chống nắng phát huy hiệu quả tối đa trên da bạn.Tuy nhiên tác dụng thực sự của kem chống nắng còn phụ thuộc nhiều yếu tố như thời tiết, tính bền vững theo thời gian của hoạt chất chống nắng, hoạt động của của bản thân người dùng.
  • Theo phần trăm: chỉ số SPF còn thể hiện khả năng ngăn chặn tia UVB dưới dạng %. Ta có công thức tính khả năng chống nắng = (1 – 1/SPF).100. Theo công thức này kem chống nắng có SPF 15 chặn được 93 % tia UVB trong khi kem chống nắng có SPF 30 chặn được 97 % tia UVB và với SPF 50 chặn được 98 % tia UVB. Như vậy kem chống nắng SPF 30 chỉ giúp bạn bảo vệ hơn 4% so với kem chống nắng SPF 15, kem chống nắng SPF 50 chỉ giúp bạn bảo vệ hơn 1% so với kem chống nắn g SPF 30. Trong khi đó, khi độ SPF càng lớn, kem sẽ lưu lại lâu hơn, dễ gây bít lỗ chân lông vblà làm da bị tổn thương. Nếu tình trạng da của bạn đang là mụn viêm sưng, thì lời khuyên là bạn chỉ nên dùng kem chống nắng với chỉ số SPF từ 15 – 30 để tránh cách kích ứng không mong muốn nhé.

Khi da chúng ta không được bảo vệ ánh nắng sẽ chiếu toàn bộ lên da chúng ta (ảnh bên phải), chống nắng có SPF 15 cho phép 7 photon ánh sáng qua da, SPF 30 cho phép 3 photon ánh sáng qua

Cách để tạo ra chống nắng có chỉ số SPF cao: có 1 học trò của bác sĩ Tâm hỏi rằng thầy ơi em dùng dưỡng ẩm có chống nắng SPF30, sau đó em dùng chống nắng SPF50, kem nền SPF20 thì em có chống nắng SPF100 rồi! Đây là điều hoàn toàn sai lầm bởi vì tạo chống nắng có SPF cao thì cần tăng nồng độ hoạt chất chống nắng lên (vì vậy chỉ số SPF càng cao kem chống nắng càng dính hơn) Cách làm của học trò của mình ở trên không làm tăng nồng độ hoạt chất chống nắng lên mà chỉ là tăng lượng chống nắng lên mà thôi. Tất nhiên lượng chống nắng càng nhiều thì ta chống nắng càng tốt.

Những bằng chứng gần đây: Williams tiến hành so sánh dùng chống nắng có SPF 100 so với SPF 50 thấy rằng nhóm dùng SPF 100 thấy rằng sau trung bình 6 giờ trượt tuyết 55.3% nhóm dùng chống nắng SPF 50 bị bỏng nắng so với chỉ 5% ở nhóm SPF 100. Điều này được giải thích là chống nắng với chỉ số SPF càng cao thì khả năng giảm tác dụng chống nắng theo thời gian ít hơn. Vì vậy các nhà da liễu Canada khuyến cáo rằng nên dùng chống nắng phổ rộng, chỉ số SPF ít nhất 30 và với chỉ số chống nắng cao hơn thì khả năng bù lại việc bôi chống nắng không đủ lượng cần thiết. Và các tác giả này cũng nhấn mạnh rằng cần phải chú ý các biện pháp chống nắng khác không chỉ riêng SPF. Điều này áp dụng trong thực tế: nếu bạn nào lười bôi chống nắng, muốn chỉ bôi chống nắng ngày 1 lần thì hãy chọn loại chống nắng có SPF cao như 70, 100 và nhớ bôi đủ lượng lúc bôi ban đầu.

Chỉ số đánh giá khả năng chống tia UVA

UVAPF (chỉ số bảo vệ tia UVA): chỉ số này được xác định bằng cách đo chỉ số tia UVA được truyền qua màng phim chứa hoạt chất chống nắng sau khi chiếu 1 chùm ánh sáng mô phỏng ánh sáng mặt trời qua ống nghiệm đó.

Hiệp hội da liễu Nhật Bản đưa ra chỉ số PA được quy đổi từ chỉ số UVAPF. Theo đó, PA được tính dựa trên MPPD (minimal persistent pigment darkening dose) – liều lượng UVA tối thiểu để tạo ra rám da trong vòng 2-4h sau khi phơi nắng. Qua tính toán cho thấy: PA+: có khả năng chống tia UVA 40 – 50% trong khi PA++ chống UVA 60 – 70%, PA+++ chống tia UVA 90%, và PA++++: chống tia UVA hơn 95%.

Về mặt thời gian, hiện tại các sản phẩm kem chống nắng đều cung cấp chỉ số lọc tia UVA khá lâu trên da: PA ++ khoảng 4 – 8 giờ, PA +++ khoảng 8 – 12 giờ và PA ++++ hơn 16 giờ.

Một số sản phẩm chống nắng không tìm thấy ký hiệu PA mà sẽ có các ký hiệu thay thế khác như: UVA – UVB, UVA/UVB hoặc UVA1, UVA2.

Đối tượng cần lưu ý khi sử dụng kem chống nắng

Trẻ em

Hiệp hội nhi khoa Mỹ không khuyến cáo sử dụng kem chống nắng cho trẻ dưới 6 tháng tuổi. Tuy nhiên trong những điều kiện cần thiết có thể sử dụng 1 lượng nhỏ kem chống nắng lên 1 vùng da nhỏ như mặt, mu tay. Với trẻ >6 tháng tuổi có thể dùng chống nắng thường quy.

Vì làn da trẻ con mỏng nên kem chống nắng yêu cầu phải không kích ứng với da và mắt đồng thời ít dị ứng. Dạng tan trong dầu của ZnO và TiO2 hay được dùng bởi vì phổ chống nắng rộng đồng thời ít kích ứng dị ứng. Việc bổ sung thêm chất chống côn trùng đốt như DEET giúp bảo vệ con bạn bới ánh nắng và côn trùng.

Phụ nữ có thai

Về cơ bản phụ nữ có thai nên dùng kem chống nắng trong suốt thời kì mang thai, nó sẽ giúp bạn giảm nguy cơ rám má sau sinh.

Các kem chống nắng về cơ bản đều có thể dùng được cho bà bầu. Tuy nhiên, trong thời kì mang thai da phụ nữ có thể nhạy cảm hơn nên việc dùng chống nắng vật lý được khuyên dùng nhiều hơn.

Một số hướng nghiên cứu mới trong kem chống nắng

Dark cyclobutane pyrimidine dimers (CPD)

Melanin được xem là chất chống lại tác dụng phụ của tia UV và hạn chế ung thư da. Tuy nhiên gần đây các nhà khoa học phát hiện ra rằng chính melanin cũng có thể góp phần tạo ra ung thư thông qua việc hình thành CPD ngay cả khi việc tiếp xúc với tia UV không còn nữa. Khi tiếp xúc UV melanin gây ra sự sản xuất ROS và NO, các chất này gây thoái hóa melanin và kích thích các dẫn xuất của melanin chuyển sang trạng thái năng lượng cao. Các dẫn xuất năng lượng cao này chuyển năng lượng cho ADN và tạo ra các CPD đột biến. Quá trình này xảy ra ngay cả khi quá trình tiếp xúc UV đã kết thúc do đó các CPD này được gọi là Dark CPD. Các CPD này thường xuất hiện vài giờ sau khi tiếp xúc tia UV.

Pheomelanin có khả năng tạo ra CPD mạnh gấp nhiều lần eumelanin khi tiếp xúc UV.

Chính thời gian trì hoãn này mở ra các nghiên cứu can thiệp hình thành dark CPD. Các nghiên cứu trong ống nghiệm đã chỉ ra rằng vitamin E hạn chế hình thành CPD.

Photolyases

Photolyases là men có khả năng sửa chữa CPD. Men này có ở các vi sinh vật ở những nơi có độ phơi nhiễm UV cao nhưng không có ở người và động vật có vú.

Nghiên cứu thử nghiệm với kem chống nắng có chứa photolyases được đựng trong các liposome đã chỉ ra giảm hình thành CPD. Kem chống nắng có chứa phottolyases đã chỉ ra giảm hình thành ung thư da ở bệnh nhân khô da sắc tố sau 1 năm so với nhóm sử dụng kem chống nắng đơn thuần. Hơn nữa khi kết hợp với các chất chống oxy hóa thì khả năng ức chế hình thành CPD tăng lên nhiều.

Vai trò của ánh sáng nhìn thấy

Ánh sáng nhìn thấy có bước sóng từ 400-700nm, chiếm 38,9% bức xạ ánh sáng mặt trời.

Ngày nay các nhà khoa học nhận thấy ánh sáng nhìn thấy cũng gây ra đen da thông qua việc tăng biểu hiện của p53 gây ra tăng tổng hợp melanin. Ánh sáng xanh có bước sóng 400-500nm (1 phần của ánh sáng mặt trời và là ánh sáng phát ra từ đèn huỳnh quang, đèn LED và TV màn hình phẳng, màn hình máy tính, màn hình smart phone) cũng nằm trong dải ánh sáng nhìn thấy và là một trong những nguyên nhân chính ảnh hưởng tới da của chúng ta.

Khi tiếp xúc với nguồn sáng có cả ánh sáng nhìn thấy và 1 lượng nhỏ UVA1 cũng làm tăng sắc tố lên nhiều lần hơn khi tiếp xúc ánh sáng nhìn thấy đơn thuần. Các bệnh nặng hơn bởi ánh sáng nhìn thấy: rám má, tăng sắc tố sau viêm, lichen phẳng thể tăng sắc tố, porphyrin da chậm, mày đay ánh nắng, dày sừng ánh nắng.

Phát hiện này mở ra hường nghiên cứu mới trong việc tìm ra các chất chống lại ánh sáng nhìn thấy. Tại thời điểm này hầu hết các chất chống nắng hóa học chỉ có tác dụng chống lại UVB và UVA2, hầu như không có tác dụng với UVA1 và ánh sáng nhìn thấy trừ avobenzone có khả năng chống lại UVA1.

Chống nắng vật lý như TiO2 ở dạng kích thước lớn có khả năng chống lại ánh sáng nhìn thấy nhưng sự xuất hiện màu trắng khi bôi trên da lại rất mất thẩm mỹ. Sắt oxide hiện tại hay được dùng để chống lại ánh sáng nhìn thấy. Sắt oxide có 3 dạng chính: oxide sắc đỏ Fe2O3 có màu đỏ, oxide sắt vàng FeO(OH).H2O 2 loại này phản xạ lại ánh sáng nhìn thấy, trong khi sắc oxide đen FeO.Fe2O3 hấp thụ toàn bộ ánh sáng nhìn thấy.

Hiện tại các nhà khoa học phát minh ra chống nắng màu (tinted sunscreen) là chống nắng pha trộn màu của các loại sắt oxide với màu trắng của TiO2. Màu sắc của chống nắng màu sẽ là sự pha trộn của các thành phần trên, với màu sắc đậm thì nồng độ sắt oxide cao hơn và có khả năng chống ánh sáng nhìn thấy tốt hơn. Trong nghiên cứu của tác giả Castanedo-Cazares thấy rằng bệnh nhân rám má khi dùng HQ4% phối hợp với chống nắng có màu chứa sắt oxide có hiệu quả hơn dùng chống nắng thông thường phối hợp với HQ4%.

Tác giả Boukari tiến hành nghiên cứu trên 40 bệnh nhân rám má thấy rằng nhóm dùng chống nắng màu có tác dụng giảm tỉ lệ tái phát so với nhóm dùng chống nắng thông thường. Màu sắc của chống nắng loại này giống với kem nền.

2 màu của chống nắng màu theo type da: có lẽ chống nắng màu vàng nhẹ phù hợp với da của người Việt mình
2 màu của chống nắng màu theo type da: có lẽ chống nắng màu vàng nhẹ phù hợp với da của người Việt mình

Chống nắng màu trên thị trường:

  • Anthelios Mineral Tinted Sunscreen for Face SPF 50 với thành phần là sắt oxide phối hợp với Ti2O. Đây là loại chống nắng hoàn toàn vật lý, thích hợp cho da nhạy cảm, chống cả ánh sáng nhìn thấy.
  • Eau Thermale Avène High Protection Complexion SPF 50+ Correcting Shield của hãng Aven thành phần cũng chỉ là chống nắng vật lý gồm cả ZnO, Ti2O và sắt oxide, cùng với các chất chống oxy hoá khác thích hợp cho da nhạy cảm, rám má, tăng sắc tố sau viêm. Màu sắc của kem chống nắng này hơi nâu vàng.

Các chất khác trong mỹ phẩm chống ánh sáng xanh

  • Sản phẩm từ tảo, rong biển là 1 trong những sản phẩm có tác dụng tốt chống ánh sáng nhìn thấy hiện tại.
  • Chiết xuất từ thực vật: từ cây ca cao, cây ỏng ảnh (lingonberry), nhân sâm, cây gừng, carot… Một trong những chống nắng chống lại ánh sáng nhìn thấy là proteos screen SPF 50+ của Martiderm chứa chiết xuất cây ca cao.
  • Các chất chống oxy hoá: carotenoids như beta-carotene, lutein có tác dụng chống ánh sáng xanh cả đường bôi và đường uống. Vitamin C, vitamin E, niacinamide cũng có tác dụng chống một phần ánh sáng xanh.
  • Chế phẩm khác: pseudoalteromonas ferment extract, calcium sodium borosilicate, cerium Oxide (và) Platinum Powder cũng có thể tham gia vào chống ánh sáng xanh.

Các dạng trình bày của kem chống nắng và cách lựa chọn kem chống nắng phù hợp với type da của bạn.

Dạng mỡ: chống nắng dạng này có nhiều nhược điểm, làm da bóng nhờn nên hiện tại nó được sử dụng nhiều trong chống nắng ở dùng môi (hay dùng trong son môi), mũi.

Dạng kem: chứa nhiều thành phần dầu, dưỡng ẩm, có tác dụng dưỡng ẩm tốt nhưng dễ gây bí, bít tắc lỗ chân lông, phù hợp cho người có làn da khô, không mụn, và những người làm việc ngoài trời dễ đổ mồ hôi. Dạng trình bày này điển hình là water in oil, là dạng hay được dùng nhất trong chống nắng chống nước và có SPF cao. Nhìn chung với các chống nắng chống nước với SPF cao thì có dạng trình bày water in oil, còn những chống nắng không chống nước thì ở dạng oil in water (dạng lotion). Dạng này thích hợp với da thường, da khô, da nhạy cảm.

Dạng dung dịch (lotion): chứa rất ít dầu, không gây bít dính, phù hợp cho người da dầu mụn. Dạng này được ưa dùng hơn nhưng lại thường không chống nước. Trong sản phẩm có thể có chứa cồn, sản phẩm trên thị trường có La Roche-Posay Anthelios Cooling Water Sunscreen Lotion SPF 60.

Dạng gel: là dạng trình bày dạng lỏng với tá dược là nước hoặc rượu có thêm chất tạo gel. Tuỳ vào lượng chất tạo gel ở trong sản phẩm chúng ta có thể có dạng trình bày serum đến dạng gel nước tới gel đặc. Dạng trình bày này khô nhanh khi bôi, tạo cảm giác mát. Dạng gel nước thường là loại chống nắng không thấm nước, cần bôi lại nhiều lần/ngày trong khi loại gel rượu thường có chống nước, dùng ít lần/ngày hơn. Dạng trình bày này thích hợp cho da dầu mụn.

Dạng cream-gel: dạng này là dạng lai giữa 2 loại ở trên có được ưu điểm của gel là khô nhanh, không bóng nhờn, cũng thêm được ưu điểm của cream là sự mềm mại khi dùng. Dạng trình bày này phù hợp với da dầu mụn. Dòng sản phẩm trên thị trường có Eucerin sun gel cream oil control SPF50+. Đây là loại kem chống nắng hoá học không nâng tông da khi dùng, có thêm carnitine để giảm bã nhờn, chất chống oxy hoá Licocalcone A & CA.

Dạng xịt: thành phần bản chất là dung dịch nhưng được trình bày ở dạng vòi xịt phù hợp cho sử dụng các vùng có diện tích da lớn như thân mình. Chú ý không xịt trực tiếp lên vùng da mặt và gần miệng vì có nguy cơ hít và nuốt phải. Muốn dùng trên mặt chúng ta xịt ra tay trước sau đó xoa lên mặt. Dạng xịt khó kiểm soát được lượng chống nắng chúng ta dùng.

Tip

Da khô: ưu tiên dạng cream.

Da thường: dạng lotion (fluid) là phù hợp.

Da dầu, mụn: chống nắng dạng fluid, gel, cream-gel. Oil-free, non-comedogenic, non-acnegenic. Thêm chất kiềm dầu, hút dầu như silica.

Dạng xịt ưu tiên dùng trên diện lớn, bôi lại chống nắng.

Da nhạy cảm: chống nắng không có mùi thơm, chống nắng vật lý.

Rám má: chống nắng có màu, SPF50+ trở lên.

Kem chống nắng nâng tông và không nâng tông

Các loại kem chống nắng nâng tông

Thành phần chủ yếu có kem chống nắng vật lý. Hoặc chứa bisoctrizole có khả năng tán xạ, phản xạ ánh sáng nhìn thấy.

Kem chống nắng của sumdfine SPF50, PA+++: kem chống nắng chống nước của Hàn Quốc với thành phần vật lý là chủ đạo như Ti2O + ZnO. Ngoài ra sản phẩm này còn thêm vào chống chống nắng hoá học là cinoxate (2-ethoxyethyl-pmethoxycinnamate), chất này chống UVB mạnh. Một trong những điểm khá thú vị của chống nắng này là có thành phần sắt oxyd có tác dụng chống lại ánh sáng nhìn thấy. Thêm vào đó có các thành phần dưỡng ẩm không gây mụn nhân như dimethicone, sodium hyaluronate… một vài chất chống oxy hoá. Khi dùng da sẽ nâng tông da khá tốt và thật. Có thể dùng cho da nhạy cảm, da khô, da dầu. Tuy nhiên, với các tín đồ không thích nâng tông da thì đây là điểm trừ cho sản phẩm.

Chống nắng melascreen UV của Ducray SPF50 là kem chống nắng chống nước và mồ hôi. Thành phần là avobezen (butyl methoxydibenzoylmethane) chống tia UVA và octyl triazone (ethylhexyl triazone), bemotrizinol (bis-ethylhexyloxyphenol methoxyphenyl triazine) chống tia UVB và bisoctrizole (methylene-bis-benzotriazolyl tetramethylbutylphenol) dưới dạng nano. Và tất nhiên trong sản phẩm chống nắng này phải có chất ổn định dạng nano của bisoctrizole là decyl glucoside là chất bề mặt nhẹ không ion, có thể là nguyên nhân gây viêm da tiếp xúc dị ứng. Tuy là kem chống nắng hoá học nhưng trong thành phần có bisoctrizole nên có thể phản xạ, tán xạ ánh sáng nhìn thấy nên chúng ta vẫn thấy có màu trắng trên bề mặt.

Chống nắng của Avène: Avène very high protection về cơ bản thành phần hoạt chất chống nắng giống với melascreen UV của Ducray.

Chống nắng photoderm MAX Aquafluide SPF 50+ của Bioderma, là kem chống nắng hoá học, chống nước. Thành phần octocrylene hấp thụ UVB, giúp ổn định avobenzen. Thành phần chống UVB khác là bemotrizinol (bis-ethylhexyloxyphenol methoxyphenyl triazine) và bisoctrizole (methylene-bis-benzotriazolyl tetramethylbutylphenol) dưới dạng nano. Chất chống tia UVA là avobezen (butyl methoxydibenzoylmethane). Ngoài ra còn có các chất bọc bề mặt chứa silicone, chất dưỡng ẩm, chống oxy hoá. Dòng chống nắng trên cũng có khả năng nâng tông da nhẹ.

Chống nắng không nâng tông

Thành phần sẽ là chống nắng hoá học: avobezen (butyl methoxydibenzoylmethane) và/hoặc ecamsule (terephthalylidene dicamphor sulfonic Acid) có tác dụng chống tia UVA phối hợp với hoạt chất chống nắng hoá học khác để chống lại UVB.

Sữa chống nắng Anthelios Invisible Fluid SPF 50+ 50ml của La Roche posay chứa cả avobenzen và ecamsule có tác dụng chống lại UVA. Vì thế sản phẩm này phải có thêm thành phần chống nắng hoá học khác để chống lại tia UVB, đó chính là octisalate (ethylhexyl salicylate) chất này không tan trong nước, có thêm tác dụng ổn định độ bền của avobenzen. Một 2 chống tia UVB khác là octyl triazone (ethylhexyl triazone), bemotrizinol (bis-ethylhexyloxyphenol methoxyphenyl triazine) cũng được thêm vào. Chống nắng này chống nước, không gây mụn nhân, không gây dị ứng, không mùi hương, tuy nhiên trong thành phần có chứa isopropyl myristate là 1 chất có thể gây mụn nhân?

Kem chống nắng Eucerin sun fluid photoaging control SPF 50: chứa hoạt chất chống nắng chống UVA là avobenzen và các hoạt chất chống tia UVB như homosalate, ethylhexyl salicylate, ethylhexyl triazon, bis-ethylhexyloxyphenol methoxyphenyl triazine. Ngoài ra sản phẩm này còn thêm licochalcone A, glycyrrhetinic acid chất chống oxy hoá, chống viêm, thành phần HA và 4-butylresorcinol (chất làm trắng da).

Kem chống nắng chống nước

Tên tiếng Anh waterproof hay water-resistant. Có nhiều cách để tăng khả năng chống nước của chống nắng: từ việc tạo chế phẩm dạng nước, chế phẩm dạng cream, cho tới việc thêm vào chất tạo màng polymer, pha thêm rượu với nồng độ thấp (trong một vài mẫu sản phẩm kem chống nắng của hãng La roche posey), bọc hoạt chất chống nắng trong liposome… Một trong những cách phổ biến nhất là tạo màng polymer trên da vì vậy trong sản phẩm chống nắng có thể thêm vào polyurethane, cyclodextrin, copolymer của một số chất…

Chống nắng chống nước là loại kem chống nắng mà không bị rửa trôi mặc dù ngâm dưới nước.

Một kem chống nắng được gọi là kem chống nắng chống nước khi chịu được ít nhất 40 phút khi ngâm da trong nước trong khi kem chống nắng siêu không thấm nước chịu được ít nhất 80 phút. Vì vậy nếu bạn bôi chống nắng chống nước trong vòng 40 phút mà bạn tắm biển tận 1 tiếng thì bạn vẫn có nguy cơ bị bỏng nắng. Nếu bạn bơi 30-40 phút, mà quãng đường về khách sạn của bạn mất tầm 10-20 phút bạn vẫn bị bỏng nắng nếu bạn không bôi lại chống nắng ngay.

Khi dùng chống nắng thông thường chúng ta có thể rửa trôi bằng sữa rửa mặt thông thường nhưng với chống nắng chống nước do chúng tạo thành 1 màng bọc trên da nên cần dùng tẩy trang dạng dầu, dạng sữa hay cold cream, cleasing balm để tẩy trang mới hết được.

Cách dùng kem chống nắng

Liều khuyến cáo

Liều chuẩn 2mg/cm2, theo công thức này để bôi hết toàn bộ cơ thể cần là 1.73m2 cần 35ml kem chống nắng. Theo nguyên tắc số 9 thì đầu mặt cổ của chúng ta chiếm 9% diện tích cơ thể, tay mỗi bên chiếm 9%, ngực bụng là 18%, lưng 18%, mỗi chân chiếm 18%. Từ đó Schneider đưa đề xuất để kem chống nắng phủ được 9% diện tích cơ thể cần 1 thìa cà phê, vì vậy bôi kem chống nắng đủ lượng cho cả đầu mặt cổ là 1 thìa cà phê, cho mỗi tay 1 thìa cà phê, mỗi chân là 2 thìa cafe. Nếu bạn bôi mỗi vùng mặt chúng ta cần 1/3-1/4 thìa cà phê là đủ vì đầu chúng ta đã được phủ bằng tóc nên không cần phải bôi. Nhiều người vẫn không hình dung được thìa cà phê là thế nào thì ước lượng 1 thìa cà phê tương đương 1 đồng xu. Mà đồng xu có đồng to đồng bé nhiều người cũng chưa hình dung ra, vậy để đơn giản thì 1 thìa cà phê có thể tương đương ¼ lòng bàn tay của chúng ta.

Thực tế chúng ta bôi chống nắng ít hơn so với khuyến cáo nhiều. Để đảm bảo việc bạn bôi đủ lượng lúc đầu có các cách sau: bôi 2 lớp chống nắng: tức là bôi xong 1 lớp rồi bôi tiếp 1 lớp khác đè lên. Nếu các bạn bôi không đủ lượng cần thiết thì chỉ số SPF sẽ giảm đi đáng để. Đa phần mọi người dùng chống nắng SPF30 nhưng bôi không đủ thì thực tế chúng ta chỉ dùng SPF15 mà thôi. Cách thứ 2 bôi kem chống nắng SPF50 hoặc SPF cao hơn như 70, 100 sẽ giúp chúng ta bù lại được phần chống nắng bôi không đủ.

Chú ý các vùng chúng ta thường bỏ qua khi dùng kem chống nắng: tai, quanh mắt, quanh miệng và vùng da đầu ở người bị hói. Chúng ta dành càng nhiều thời gian bôi chống nắng thì khả năng bôi đủ lượng, bôi hết các vùng hở, bôi chống nắng đều là rất cao.

Quy tắc thìa cà phê khi dùng chống nắng: đầu mặt cổ 1 thìa (riêng mặt thì 1/3-1/4 thìa), mỗi tay 1 thìa, chân mỗi bên 2 thìa, ngực 2 thìa, và lưng 2 thìa
Quy tắc thìa cà phê khi dùng chống nắng: đầu mặt cổ 1 thìa (riêng mặt thì 1/3-1/4 thìa), mỗi tay 1 thìa, chân mỗi bên 2 thìa, ngực 2 thìa, và lưng 2 thìa

Lượng 1 thìa cafe theo khuyến cáo, và thực tế mọi người bôi chống nắng ít hơn, để đảm bảo việc bôi đủ liều chúng ta nên bôi 2 lớp chống nắng liền nhau hay bôi chống nắng SPF cao

Khuyến cáo: bôi chống nắng trước khi ra ngoài khoảng 15-30 phút. Tuy nhiên, nghiên cứu gần đây thấy rằng bôi kem chống nắng có tác dụng chống tia cực tím ngay lập tức, vì vậy việc trì hoãn sau đó 15-30 phút cũng không quá quan trọng. Việc đảm bảo bôi chống nắng 15-30 phút có ý nghĩa khi chúng ta xuống nước, bởi vì khoảng thời gian này cần thiết để chống nắng có thể chống được nước.

Sau bao lâu chúng ta bôi lại chống nắng:

  • Theo khuyến cáo chung chúng ta bôi lại sau mỗi 2 giờ bởi vì theo phân tích ở trên một số thành phần chống nắng hoá học bị phá huỷ bởi ánh nắng. Tuy nhiên bằng chứng của việc dùng chống nắng lại sau mỗi 2 giờ không cao, khuyến cáo này đến từ thực tế rằng đa phần mọi người đều bôi không đủ chống nắng ở lần đầu tiên nên bôi lại sau 2 giờ sẽ giúp chống nắng được đầy đủ hơn.
  • Theo lý thuyết chống nắng có chỉ số SPF50 bảo vệ chúng ta tới 500 phút (hơn 8 giờ) mà không bị bỏng nắng. Trong nghiên cứu của Bodekær tác giả này thấy rằng việc bôi 1 lần là đủ.
  • Thêm vào đó nếu chúng ta bôi chống nắng sau đó phần lớn thời gian chúng ta ở trong nhà, trong bóng râm, được che chắn bằng chống nắng cơ học như quần áo, mũ… thì việc bôi lại chống nắng không quá cần thiết. Nếu chúng ta lại sử dụng chống nắng có thành phần vật lý nữa (ổn định dưới ánh nắng) thì liệu rằng chúng ta cần bôi lại chống nắng? Câu trả lời tất nhiên là không cần bôi lại rồi.
  • Chính vì những điều trên hội da liễu Canada khuyến cáo: Nếu chúng ta dùng đủ lượng chống nắng cần thiết vào buổi sáng trước khi ra nắng thì việc bôi lại chỉ cần thiết khi các hoạt động làm trôi kem chống nắng như bơi, chảy mồ hôi, va chạm. Nhớ bôi chống nắng đủ lượng cần thiết lần đầu tiên nhé.

Khi bôi lại chống nắng chúng ta cần tẩy trang, rửa mặt không: về cơ bản chúng ta không cần tẩy trang mà bôi trực tiếp chống nắng lên vùng đã được chống nắng từ trước. Nếu bạn bôi chồng lên thì chống nắng dạng gel, cream gel, dạng xịt. Nếu bạn cảm thấy da mình quá dầu và bẩn cần tẩy trang hoặc rửa mặt trước khi bôi chống nắng vào buổi trưa các bạn hoàn toàn có thể làm điều này.

Tip

Quy tắc thìa cà phê, đồng xu, ¼ lòng bàn tay.

Bôi 2 lớp liên tục.

Dành nhiều thời gian bôi chống nắng.

Bôi chống nắng SPF cao.

Bôi lại chống nắng bằng dạng gel, cream-gel, xịt.

Chống nắng ở môi

Nguy cơ ung thư ở môi, đặc biệt là ung thư tế bào gai ở môi là có. Việc tiếp xúc với ánh nắng làm tăng nguy cơ này. Chống nắng vùng môi tốt giúp giảm nguy cơ ung thư môi, các sản phẩm dưỡng môi có thể chứa các chất chống nắng.

Khuyến cáo nên dùng chống nắng riêng cho vùng môi: dùng sản phẩm như lip balm (được khuyến cáo dùng), lip glosse, và son môi chứa SPF ít nhất 15 theo khuyến cáo hội Da liễu Mỹ.

Bôi chống nắng bị vón cục hay bị bợt, làm thế nào để hạn chế tình trạng trên

Chống nắng vật lý nếu bôi không đúng cách sẽ làm mặt của chúng ta nâng tông không đều. Để giảm tình trạng này ta cần chú ý các điều sau

Tình trạng vón cục mỹ phẩm làm cho các bạn kém duyên, nguyên nhân do các sản phẩm chăm sóc da không tương thích với nhau. Các nguyên nhân và giải pháp tránh hiện tượng trên (nhớ 1 nguyên tắc đơn giản: sản phẩm tan trong nước đi với tan trong nước, tan trong dầu đi với tan trong dầu):

  • Dùng quá nhiều lượng thuốc nên không thấm hết được vào trong da. Lời khuyên đặt ra: dùng đủ lượng cần thiết, với chống nắng ở vùng mặt 1/3-1/4 thìa cà phê.
  • Dùng quá nhiều sản phẩm chăm sóc da, dẫn tới sự không tương thích giữa các sản phẩm. Một vấn đề nữa đó là chúng ta dành quá ít thời gian để bôi dẫn tới bôi các sản phẩm chồng lên nhau khi mà nó chưa được ngấm hết vào da. Lời khuyên đặt ra: dùng ít các sản phẩm có thể, nếu được dùng các sản phẩm chung 1 hãng để có sự tương thích nhất định.
  • Dùng các sản phẩm tan trong nước với các sản phẩm tan trong dầu quá gần nhau gây sự không tương thích. Vấn đề này liên quan tới thứ tự bôi các sản phẩm chăm sóc da trong quy trình chăm sóc da của chúng ta: sản phẩm nào lỏng bôi trước (dễ ngấm và ngấm nhanh vào da để tương thích với sản phẩm bôi sau), sản phẩm đặc bôi sau. Serum lỏng nên bôi trước kem dưỡng ẩm đặc hơn, hoặc nếu kem mắt đặc hơn dưỡng ẩm thì bôi kem dưỡng ẩm trước kem mắt. Lời khuyên đưa ra: bôi thuốc theo đúng thứ tự, đợi sản phẩm ngấm vào trong da mới tiếp tục tới các bước tiếp theo.
  • Da quá dầu: khi bôi các sản phẩm trên da dễ gây sự không tương thích. Lời khuyên đưa ra: nếu bạn da quá dầu hoặc đổ nhiều mồ hôi, trước khi bôi lại kem chống nắng bạn có thể tẩy trang nhẹ sau đó bôi chống nắng. Hoặc bạn có thể dùng giấy thấm dầu trước khi bôi chống nắng lên. Da bạn quá dầu có thể lựa chọn sữa rửa mặt chứa salicylic.
  • Dùng sản phẩm không chứa silicone lên sản phẩm chứa silicone: Silicone là 1 dạng dầu tổng hợp, nếu bạn bôi chống nắng không có silicone lên trên dưỡng ẩm có silicone thì rất dễ xảy ra sự không tương thích. Lời khuyên đưa ra: dùng các sản phẩm chứa cùng hoạt chất silicone với nhau.
  • Dùng chống nắng chống nước lên sản phẩm nhiều nước hoặc da ướt hoặc quá ẩm. Lời khuyên đưa ra: đợi các sản phẩm ngấm hết vào trong da hãy bôi chống nắng, hoặc lau khô da sau rửa mặt rồi mới dùng chống nắng.

Không cào gãi khi dùng chống nắng vì sẽ làm mất lớp chống nắng trên bề mặt làm mặt chúng ta không được đều màu.

Xem thêm: 6 vấn đề thường gặp phải khi sử dụng kem chống nắng

Kem chống nắng tại nhà có nguồn gốc tự nhiên

Các thành phần chống nắng có nguồn gốc tự nhiên như các loại dầu tự nhiên: dầu dừa, dầu Ô liu, dầu chanh, dầu bưởi, dầu cây mâm xôi, dầu lavender, nước cà rốt… có khả năng chống lại tia UVB. Để tăng tính chống nước cho kem chống nắng tại nhà cư dân mạng dùng thêm sáp ong. Để kem chống nắng mềm mượt hơn có thể thêm bơ hạt mỡ (shea butter). Và 1 công thức nữa hay được lan truyền đó là cho thêm ZnO hoặc Ti2O vào để tăng khả năng chống tia UVA.

Tuy nhiên các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các loại dầu trên chỉ có khả năng chống tia UVB 1 cách hạn chế. Dầu dừa được nghiên cứu có chỉ số SPF 1-7, bơ hạt mỡ và dầu lavender có chỉ số SPF £6. Riêng nghiên cứu của Oomah thấy rằng chỉ số SPF của cây mâm xôi từ 28-30. Một trong những vấn đề đáng lo ngại nữa đó là khi dùng các loại dầu trên để chống nắng chúng ta có nguy cơ dị ứng và xuất hiện mụn nhân trứng cá nhiều hơn. Thêm vào đó việc dùng các chất trên chúng ta không biết được chính xác chỉ số SPF. Chính vì vậy chúng ta hết sức chú ý trước các thông tin cách làm kem chống nắng tại nhà trên các trang mạng.

Xem thêm: Kem chống nắng tự chế tại nhà có hiệu quả và an toàn?

Chất chống nắng đường uống

Các loại kem chống nắng hiện nay gần như không chống lại được ánh sáng nhìn thấy, hơn nữa kem chống nắng cũng có những hạn chế trong những trường hợp nhất định như trong thời tiết đổ mồ hôi nhiều hay tắm biển… do đó ngày nay các liệu pháp chống nắng đường uống toàn thân hay tiêm dưới da đã được phát hiện để khắc phục tình trạng này. Ngoài 3 thành phần được nêu ở dưới đây các thuốc chống oxy hoá khác như vitamin A, C, E, astaxanthin, trà xanh… cũng có tác dụng chống tác hại của ánh nắng mặt trời.

Thành phần chống nắng đường uống

Polypodium leucotomos

Được chiết xuất từ cây dương xỉ có nguồn gốc từ Trung và Nam mỹ. Có tác dụng chống oxy hóa và chống viêm do đó giảm thiểu tác dụng có hại của UV và ánh sáng nhìn thấy

  • Tác dụng chống oxy hóa: làm giảm các peroxide lipid và trung hòa các anion suproxide và các gốc hydroxyl xuất hiện sau tiếp xúc UV.
  • Tác dụng chống viêm: làm giảm biểu hiện của cyclooxygenase-2, giảm biểu hiện gen p53, CPD, các tế bào viêm.

Các nghiên cứu ở người chỉ ra rằng polypodium leucotomos có tác dụng tăng liều tối thiểu để gây đen da, tăng liều đỏ da tối thiểu và tăng liều gây độc da tối thiểu. Thuốc cũng làm giảm biểu hiện của bệnh phát ban đa đa dạng do ánh sáng và nhiều bệnh da do ánh sáng khác. Trong nghiên cứu của Goh và cộng sự trên 40 bệnh nhân rám má người Châu Á thấy rằng thuốc có tác dụng thúc đẩy nhanh hiệu quả điều trị rám má bằng hydroquinone.

Sản phẩm viên uống chống nắng Heliocare: thành phần là polypodium leucotomos và một số chất chống oxy hoá khác.

Nicotinamide

Nicotinamide là dạng amide hoạt động của vitamin B3 (niacin; axit nicotinic) và là đồng yếu tố cho adenosine triphosphate, rất cần thiết trong sửa chữa ADN trong da. Bức xạ UV ức chế quá trính tổng hợp adenosine triphotphat và ngăn chặn quá tình sửa chữa ADN. Nicotinamide có tác ngăn chặn tác dụng ức chế của tia cực tím trong việc tổn hợp adenosine triphotphat đồng thời tăng cường sửa chữa ADN và giảm hình thành CPD.

Khác với vitamin B3, nicotinamide không gây ra cơn nóng bừng mặt

Một thử nghiệm pha II, trên các bệnh nhân có tổn thương da do ánh sáng, uống nicotinamide 500mg 1 hoặc 2 lần mỗi ngày, sau 4 tháng tỉ lệ giảm dày sừng ánh sáng lần lượt là 29% và 35%. Một thử nghiệm pha III trên các bệnh nhân có tiền sử bị ít nhất 2 loại ung thư da không phải hắc tố, các bệnh nhân được uống nicotinamide 500mg x 2 lần/ngày, sau 12 tháng tỷ lệ xuất hiện ung thư mới giảm 23%, còn giảm 11 % dày sừng ánh sáng so với giả dược. Điều đáng lưu ý là khi ngừng nicotinamide thì tác dụng ức chế này không còn nữa.

Afamelanotide

Afamelanotide là một đồng phân của hormone kích thích alphamelanocyte, và hoạt động như một chất chủ vận của thụ thể melanocortin-1. Nó kích thích sự tổng hợp melanin (eumelanin) mà không cần các tế bào da bị tổn thương do phơi nhiễm với tia cực tím.

Afamelanotide được tìm thấy như 1 biện pháp bảo vệ ở bệnh nhân porphyrin da chậm và bệnh nhân mày đay do ánh sáng bằng cách kích thích tổng hợp melanin đồng thời nó cũng hoạt động như một chất chống oxy hóa.

Trong một thử nghiệm pha II, trên các bệnh nhân porphyrin da chậm, được tiêm 16mg afamelanotide mỗi 60 ngày, kết quả cải thiện chất lượng cuộc sống và kéo dài thời gian không đau sau khi tiếp xúc ánh sáng. Afamelanotide kết hợp với UVB trong điều trị bạch biến làm tăng tốc độ tái tạo sắc tố trong bạch biến.

Kết luận chung về chống nắng đường uống

Chống nắng đường uống không thay thế được chống nắng đường bôi.

Polypodium leucotomos có thể giúp bạn tránh được phần nào đó nguy cơ bị bỏng nắng, thâm da. Nó cũng giúp bảo vệ bạn trong những trường hợp có bệnh da liên quan tới ánh sáng. Nicotinamide giúp giảm nguy cơ hình thành dày sừng ánh sáng (tiền ung thư da) và ung thư da không hắc tố. Với dày sừng ánh sáng nó có thể giúp giảm triệu chứng. Afamelanotide có tác dụng trong hỗ trợ điều trị porphyrin da chậm.

Tài liệu tham khảo

Wang SQ, Balagula Y, osterwalder U (2010). Photoprotection: a review of the current and future technologies. Dermatol ther, Jan-Feb;23(1):31-47. doi: 10.1111/j.1529-8019.2009.01289.x.

Yeager DG1, Lim HW2. What’s New in Photoprotection: A Review of New Concepts and Controversies. Dermatol Clin. 2019 Apr;37(2):149-157 doi: 10.1016/j.det.2018.11.003. Epub 2019 Feb 16.

Gasparro FP1, Mitchnick M, Nash JF. A review of sunscreen safety and efficacy. Photochem Photobiol. 1998 Sep;68(3):243-56.

Mukund Manikrao Donglikar1 and Sharada Laxman Deore2* Sunscreens: A review. Pharmacogn. J. DOI: 10.5530/pj.2016.3.1.

De Gálvez MV, Aguilera J, Buendía EA, Sánchez-Roldán C, Herrera-Ceballos E. Time required for a standard sunscreen to become effective following application: a UV photography study. JEur Acad Dermatology Venereol. 2018;32(4):e123-e124. doi:10.1111/jdv.14626

Bodekær M, Åkerström U, Wulf HC. Accumulation of sunscreen in human skin after daily applications: a study of sunscreens with different ultraviolet radiation filters. Photodermatol Photoimmunol Photomed. 2012;28(3):127- 132. doi:10.1111/j.1600-0781.2012.00651.x

Li H, Colantonio S, Dawson A, Lin X, Beecker J. Sunscreen Application, Safety, and Sun Protection: The Evidence. J Cutan Med Surg. 2019;23(4):357-369. doi:10.1177/1203475419856611.

Williams JD, Maitra P, Atillasoy E, Wu M-M, Farberg AS, Rigel DS. SPF 100+ sunscreen is more protective against sunburn than SPF 50+ in actual use: Results of a randomized, double-blind, split-face, natural sunlight exposure clinical trial. J Am Acad Dermatol. 2018;78(5):902-910.e2. doi:10.1016/j. jaad.2017.12.062

Isedeh P, Osterwalder U, Lim HW. Teaspoon rule revisited: proper amount of sunscreen application. Photodermatol Photoimmunol Photomed. 2013;29(1):55-56. doi:10.1111/phpp.12017.

Lyons, A. B., Trullas, C., Kohli, I., Hamzavi, I. H., & Lim, H. W. (2020). Photoprotection Beyond Ultraviolet Radiation: A Review of Tinted Sunscreens. Journal of the American Academy of Dermatology. doi:10.1016/j.jaad.2020.04.079.

Schneider, S. L., & Lim, H. W. (2018). A review of inorganic UV filters zinc oxide (ZnO) and titanium dioxide (TiO2). Photodermatology, Photoimmunology & Photomedicine. doi:10.1111/phpp.12439

Goh C-L, Chuah SY, Tien S, Thng G, Vitale MA, Delgado-Rubin A. Double-blind, Placebo-controlled Trial to Evaluate the Effectiveness of Polypodium Leucotomos Extract in the Treatment of Melasma in Asian Skin: A Pilot Study. J Clin Aesthet Dermatol. 2018;11(3):14-19.

Draelos, Z. D. (2006). Compliance and Sunscreens. Dermatologic Clinics, 24(1), 101–104. doi:10.1016/j.det.2005.09.001.

Austin E, Huang A, Adar T, Wang E, Jagdeo J. Electronic device generated light increases reactive oxygen species in human fibroblasts. Lasers Surg Med. 2018 doi: 10.1002/lsm.22794.

Duteil L, Queille-Roussel C, Lacour J-P, Montaudié H, Passeron T. Short-term exposure to blue light emitted by electronic devices does not worsen melasma. J Am Acad Dermatol. 2020;83(3):913-914.

Coats, J. G., Maktabi, B., Abou‐Dahech, M. S., & Baki, G. (2020). Blue light protection, part II—Ingredients and performance testing methods. Journal of Cosmetic Dermatology. doi:10.1111/jocd.13854.

Merten et al (2019). Pinterest Homemade Sunscreens: A Recipe for Sunburn. Health Communication, 1-6. doi:10.1080/10410236.2019.1616442

18008048